Cảm nhận bài thơ chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 

 

cảm nhận bài thơ chiều tối 1

Bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh vẽ nên bức tranh hoàng hôn yên bình, nơi khói lam chiều quyện trong làn gió mát rượi. Qua những hình ảnh giản dị và ngôn từ mộc mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác họa tâm hồn ung dung, tình yêu thiên nhiên sâu sắc và tinh thần lạc quan bất khuất của người chiến sĩ cách mạng.

Cảm nhận bài thơ chiều tối của Hồ Chí Minh

Những năm bốn mươi của thế kỷ trước, trong khi thơ văn lãng mạn Việt Nam đang ngập tràn nỗi u hoài, nhiều thi sĩ thời đó thường gửi hồn mình vào buổi chiều như một ẩn dụ cho nỗi buồn, cho những khắc khoải nội tâm trước thời cuộc. Ta còn nhớ Huy Cận với “Tràng giang” từng để lại một buổi chiều hoang vắng và lạnh lẽo trong tâm hồn:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa…”

Một lớp thi nhân – chủ yếu là trí thức tiểu tư sản – khi ấy đang lạc lối giữa cơn khủng hoảng tinh thần, bị dồn nén trong xã hội thực dân nửa phong kiến, nơi lý tưởng sống chưa tìm được đường ra. Họ ngột ngạt, u uất, bất lực – cảm giác “buồn không hiểu vì sao mà buồn” ngấm vào câu chữ, khiến buổi chiều trong thơ trở thành biểu tượng của sự lẻ loi, của sự chán chường trước thế cuộc.

Thế nhưng cũng là buổi chiều, cũng là cánh chim, áng mây, nhưng dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh – một con người mang tâm thế của người làm chủ thời đại, người cầm lái lịch sử – thì hình ảnh chiều muộn lại mở ra một bức tranh giàu sức sống, thấm đẫm lòng yêu thiên nhiên, yêu lao động, và hơn hết là một niềm tin bất diệt vào ánh sáng, vào con người. Người cũng viết trong hoàn cảnh lao tù, thậm chí là khi đang bị áp giải, xiềng xích nặng nề, thế nhưng ngôn từ lại nhẹ tênh, thanh thản và giàu nhân bản.

Ta có thể thấy rõ sự đối lập về cảm hứng trong hai thế giới nghệ thuật ấy: nếu các nhà thơ lãng mạn thời trước thường hướng cảm xúc vào bên trong để than vãn, lẩn tránh, thì Hồ Chí Minh lại mở rộng tâm hồn ra bên ngoài – hướng đến con người, đến thiên nhiên, đến công việc – đó là sự vươn lên khỏi hoàn cảnh bằng một tinh thần chủ động và tích cực.

Điều này cũng làm gợi nhắc đến những vần thơ của nhà thơ Trung Hoa nổi tiếng – Lý Bạch, khi ông viết:

“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”

(Mọi cánh chim đã bay xa,
Chòm mây đơn độc thong dong trôi)

Cũng là chim, là mây, là sự lặng lẽ giữa chiều muộn, nhưng Lý Bạch chọn lối thoát tục – bay vào cõi hư vô, tìm đến sự tự tại cá nhân. Thơ Lý Bạch là cái nhìn lánh đời, thiêng về ý niệm ẩn sĩ, xa rời trần thế. Còn trong “Chiều tối”, Hồ Chí Minh không trốn tránh hiện thực, mà đối mặt. Cánh chim trong thơ Bác không bay đi không điểm đến, mà là bay về rừng – nơi trú ngụ ấm áp. Mây trong thơ Bác không phiêu du mộng tưởng mà vẫn trôi trong chiều thực tại – rất nhẹ, nhưng đầy cảm nhận. Đó là điểm khác biệt giữa một tâm hồn nghệ sĩ và một tâm hồn cách mạng, giữa một cái tôi cá nhân và một cái tôi đại diện cho nhân loại.

Ngay cả khi đặt cạnh những nữ sĩ Việt Nam tiêu biểu như bà Huyện Thanh Quan, người cũng từng vẽ lại cảnh chiều buồn trong bài “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Cảnh vật hiện ra cô quạnh, nhân vật trữ tình gắn với nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhưng mang nặng cảm giác bất lực, lạc lõng giữa không gian và thời gian. Trong khi đó, Hồ Chí Minh cũng nhớ nhà, cũng xa xứ, nhưng không để nỗi nhớ ấy nhấn chìm mình. Trái lại, Người biến dòng cảm xúc đó thành động lực để hướng đến sự sống, đến hành động tích cực, để thấy được vẻ đẹp lao động nơi cô gái xóm núi và ánh sáng rực hồng từ bếp lửa.

Một ví dụ thú vị khác, là trong thơ Đường – với bài “Giang tuyết” của Liễu Tông Nguyên:

“Ngàn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không
Thuyền đơn ông lão tới
Một mình câu tuyết sông”

Không gian trong bài thơ này mang cảm giác tuyệt đối vắng lặng, mang hình ảnh một người ẩn sĩ sống tách biệt hoàn toàn với đời sống xã hội. Nhưng Hồ Chí Minh thì khác. Người không chọn “ẩn mình” mà chọn “hòa mình” vào đời sống. Hình ảnh “thiếu nữ xay ngô” của Bác không chỉ mang sức sống mới cho bức tranh thơ mà còn là một tuyên ngôn về vẻ đẹp bình dị của lao động – nơi con người dù nhỏ bé, nhưng vẫn chủ động tạo ra ánh sáng, vẫn làm chủ được chính cuộc sống của mình.

Cũng chính vì thế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định rất sâu sắc: “Từ tư tưởng đến hình tượng, thơ Hồ Chí Minh luôn vận động từ bóng tối tới ánh sáng, từ cái hữu hạn đến cái vô hạn, từ nỗi đau hiện thực đến niềm tin vào tương lai.” Đó là sự vận động tích cực của tinh thần thi sĩ – chiến sĩ – bậc đại nhân.

Chính sự chuyển dịch này làm nên sự khác biệt căn bản: nếu buổi chiều trong thơ lãng mạn là “điểm dừng” của cảm xúc, của khép lại, thì trong thơ Hồ Chí Minh, buổi chiều lại là điểm mở ra một niềm sống mới, mở ra “lò than rực hồng” – biểu tượng cho sức sống không gì dập tắt được.

Chữ “hồng” ấy – như nhà thơ Hoàng Trung Thông từng khẳng định – không chỉ là điểm sáng cuối bài, mà còn là một hạt nhân tinh thần xuyên suốt tư tưởng nghệ thuật của Hồ Chí Minh. Cái “hồng” ấy không chỉ bừng sáng không gian buổi tối mà còn thắp lên ánh lửa trong lòng người, khiến thơ của Người dù trong lao tù vẫn đầy tự do, dù bị xiềng xích vẫn vô cùng thanh thản.

Xem thêm:

Website cung cấp hệ thống văn mẫu, phân tích tác phẩm và tài liệu học văn phong phú, bám sát chương trình học. Nội dung được chọn lọc kỹ lưỡng

Liên hệ

Email: vanmauhay.net@gmail.com

Địa chỉ: Số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1, TP.HCM

SĐT: 0366 589 2222