Trong dòng chảy thi ca kháng chiến, nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân hiện lên như biểu tượng đẹp đẽ của tình yêu làng quê và lòng yêu nước thiết tha. Phân tích nhân vật ông Hai, ta cảm nhận được một tâm hồn mộc mạc mà sâu sắc, một trái tim chất chứa niềm tự hào, nỗi nhớ thương quê hương và sự gắn bó thủy chung với Tổ quốc. Qua hình ảnh ông Hai, Kim Lân đã khắc họa sinh động vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh gian khó.
Phân tích nhân vật ông Hai – Kim Lân
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.” Quả đúng vậy, dù phản ánh hiện thực hay mơ tưởng lý tưởng, dù theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực, văn chương vẫn luôn xoay quanh con người, với tất cả yêu thương, niềm tin và khát vọng. Mỗi tác phẩm hay chính là một hành trình khám phá đời sống nhân sinh, soi chiếu tâm hồn con người trong những khoảnh khắc đẹp nhất và cũng gian truân nhất. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một áng văn như thế. Qua câu chuyện của ông Hai – một người nông dân yêu làng, yêu nước, Kim Lân đã vẽ nên một bức tranh sinh động và cảm động về tâm hồn con người Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết về đề tài nông thôn, cuộc sống người dân lao động. Với một ngòi bút tinh tế và một trái tim yêu thương sâu sắc, ông đã khắc họa nên những hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng cũng vô cùng sâu sắc của người nông dân Việt Nam. Truyện ngắn “Làng” ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt, khi những cuộc tản cư diễn ra khắp nơi. Chính trong bối cảnh ấy, tình yêu quê hương, lòng yêu nước của con người Việt Nam được thử thách, hun đúc và tỏa sáng rực rỡ.
Ông Hai – nhân vật trung tâm của truyện – hiện lên với tất cả sự chân chất, mộc mạc của một người nông dân Việt Nam truyền thống. Cái tính hay khoe làng của ông, cái cách ông tự hào mỗi khi nhắc đến Chợ Dầu, cho thấy tình yêu làng sâu sắc đã ăn sâu vào máu thịt ông. Mỗi khi nhắc đến làng, ông Hai đều bừng sáng cả gương mặt, ánh mắt long lanh như đứa trẻ khoe món đồ chơi quý giá. Ông kể về làng mình không phải để được người khác khen ngợi mà đơn giản chỉ vì lòng yêu mến, tự hào trào dâng không thể kìm nén.
Yêu làng, nhớ làng, khi buộc phải rời xa quê hương trong cuộc tản cư, ông Hai đau đáu nỗi nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ từng con đường, từng hàng cây. Ông hồi tưởng lại những ngày còn ở làng, được cùng anh em đào đường, đắp ụ, góp sức xây dựng làng kháng chiến. Nỗi nhớ ấy không chỉ là nhớ cảnh vật mà còn là nhớ những ngày tháng hào hùng, sôi nổi. Ông yêu cái làng ấy bởi nó không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn, mà còn là biểu tượng cho kháng chiến, cho lòng yêu nước.
Nhưng rồi bi kịch xảy đến khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Một cú sét đánh ngang tai khiến ông nghẹn ngào, đau đớn, bàng hoàng. Cổ họng tắc nghẹn, da mặt tê dại, ông lặng đi như không thở nổi. Những câu hỏi liên tiếp dồn dập trong lòng: “Liệu có thật không?”, “Có ai bịa ra không?” Cảm xúc ấy vừa là sự từ chối thực tại phũ phàng vừa là tiếng lòng tuyệt vọng khi niềm tự hào lớn nhất sụp đổ.
Mang nỗi đau tủi nhục, ông lê bước về nhà trong nỗi cô đơn tuyệt vọng. Ông nằm vật ra giường, nước mắt giàn giụa. Ông lo lắng cho bản thân, cho gia đình, cho cả những đứa con bé bỏng liệu rồi có bị khinh bỉ, ghét bỏ vì cái mác “làng Việt gian” hay không. Nỗi đau ấy không chỉ là sự thất vọng với làng quê mà còn là nỗi dằn vặt trong sâu thẳm tâm hồn. Đó là tình yêu làng bị phản bội, là lòng tự trọng bị tổn thương nghiêm trọng.
Từ khi nghe tin dữ, ông Hai sống thu mình, né tránh mọi ánh mắt, mọi lời bàn tán. Nỗi ám ảnh về tội lỗi đè nặng lên tâm hồn ông. Ông sợ đến cả việc nghe ai nhắc tới từ “Việt gian”, “cam-nhông”, “Pháp”. Tâm trạng ấy cho thấy tình yêu quê hương của ông sâu sắc đến mức đau đớn khi bị xúc phạm.
Đau đớn, tuyệt vọng, ông Hai từng nghĩ đến việc quay trở lại làng. Nhưng rồi lý trí lại trỗi dậy mạnh mẽ: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Tình yêu nước, tình yêu Cụ Hồ lớn hơn tất cả. Ông Hai đã vượt lên tình cảm cá nhân để chọn đứng về phía dân tộc, chọn lòng trung thành với cách mạng.
Trong những đêm tối đen như mực của tâm hồn, ông chỉ còn biết tâm sự với thằng con nhỏ, dặn con nhớ rằng nhà mình ở làng Chợ Dầu, nhớ rằng phải trung thành với Cụ Hồ, với kháng chiến. Đó là lời tự nhủ, là cách ông giữ gìn niềm tin cho chính mình.
Đỉnh điểm của câu chuyện là khi ông Hai nghe tin cải chính: làng Chợ Dầu không theo giặc, tin trước đó chỉ là tin đồn thất thiệt. Tin ấy đến như ánh sáng chói lòa xóa tan bóng tối u ám trong lòng ông. Ông mừng rỡ như trẻ thơ, chạy khắp nơi khoe khoang: “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!” Câu nói nghe tưởng chừng ngô nghê nhưng lại chứa đựng niềm vui sướng vô bờ: nhà bị đốt nghĩa là làng mình trung thành với kháng chiến, với Tổ quốc. Với ông Hai, danh dự, lòng tự hào về làng quan trọng hơn cả tài sản vật chất.
Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân không chỉ khắc họa thành công nhân vật ông Hai mà còn thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đó là giá trị hiện thực – phản ánh cuộc sống người nông dân Việt Nam trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, với biết bao gian lao, thử thách. Đó còn là giá trị nhân đạo – ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: tình yêu làng quê gắn bó máu thịt hòa quyện với lòng yêu nước nồng nàn.
Về nghệ thuật, “Làng” thành công bởi nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, ngôn ngữ giản dị, gần gũi, đậm màu sắc nông thôn Bắc Bộ. Đặc biệt, Kim Lân đã sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm rất thành công để khai thác chiều sâu tâm lý ông Hai, làm cho nhân vật trở nên sống động, chân thực và đầy sức lay động.
“Truyện ngắn “Làng” là bài ca bất diệt về tình yêu làng quê gắn bó máu thịt với lòng yêu nước thiêng liêng. Qua câu chuyện của ông Hai, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu quê hương chân thành luôn song hành và thăng hoa cùng tình yêu đất nước. Chính sự thống nhất ấy đã tạo nên sức mạnh kỳ diệu giúp con người Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, mất mát để vững vàng trong hành trình dựng nước và giữ nước.
Như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng,
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
Tình yêu quê hương, đất nước ấy không phải là những gì xa xôi trừu tượng, mà bắt nguồn từ những điều giản dị nhất: từ mái nhà, con đường, cái giếng nước, gốc đa làng quê. Kim Lân đã rất thành công trong việc khắc họa điều đó qua nhân vật ông Hai – một người nông dân nhỏ bé nhưng mang trong mình một tấm lòng lớn lao. “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, mãi ngân vang trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Xem thêm: